Thứ Ba, 12 tháng 7, 2016

Những điều thú vị về chợ nổi Cái Răng vừa được chứng nhận di sản văn hóa

Tên Cái Răng vốn xuất phát từ ngôn ngữ Khmer có nghĩa là cà ràng (bếp bằng đất nung).

Xem thêm: Một ngày về xứ Tây Đô vi vu sóng nước
Chứng nhận di sản văn hóa phi vật thể vừa được Bộ Văn hóa Thể thao và du lịch trao cho Chợ nổi Cái Răng (Cần Thơ) sáng 9/7. Sau gần 100 năm hoạt động, khu chợ nổi lớn nhất miền Tây Nam Bộ được tôn vinh trong ngày hội du lịch được tổ chức trên chính khu Chợ nổi Cái Răng. Chứng nhận khẳng định giá trị của chợ và nhắc nhở ý thức giữ gìn, bảo vệ một nét văn hóa đặc trưng miền Tây sông nước.

Chợ nổi nhộn nhịp quanh năm. Ảnh: Mr. True

Theo các nghiên cứu văn hóa Nam bộ, tên Cái Răng vốn xuất phát từ ngôn ngữ Khmer có nghĩa là cà ràng (bếp bằng đất nung) do từ đầu thế kỷ 20, ven con sông này có nhiều hộ người Khmer sản xuất cà ràng. Khoảng những năm 1915, khi các con kênh ở miền Tây được người Pháp cho đào, việc thông thương bằng xuồng bè bắt đầu xuất hiện, khu vực này trở nên nhộn nhịp.

Cùng với chợ nổi Ngã Năm ở Sóc Trăng, chợ nổi Ngã Bảy - Phụng Hiệp ở Hậu Giang, chợ nổi Cái Răng dần được hình thành với hàng trăm ghe thuyền tụ hội mua bán hàng hóa rất tấp nập. Ghe hàng của người Việt bán rau củ quả, còn ghe buồm của người Khmer chở bán cà ràng (bếp bằng đất nung), người Hoa thì bán tạp hóa.

Khi mới hình thành, Chợ nổi Cái Răng nằm ở vị trí giao nhau giữa bốn con sông Cần Thơ, Đầu Sấu, Cái Sơn, Cái Răng Bé, liền kề với chợ Cái Răng trên bờ. Các ghe chở hàng gia dụng, gốm sứ từ Biên Hòa, Sài Gòn, Lái Thiêu cùng với ghe chở lá lợp nhà, chiếu, than đước, thủy sản từ Cà Mau, Rạch Giá tề tụ khiến chợ nhộn nhịp quanh năm.

Đến thập niên 90 của thế kỷ 20, do trở ngại về giao thông đường thủy, chợ nổi được di dời từ vị trí ban đầu qua khỏi cầu Cái Răng hướng về phía Phong Điền, cách vị trí cũ trên 1 km. Hiện chợ nằm ở phía hạ lưu sông Cần Thơ, từ Sài Gòn về, chỉ cần qua khỏi cầu Cái răng vài trăm mét là đến. 

Khách nước ngoài thích thú khi được ăn điểm tâm trên ghe. Ảnh: Mr. True

Không còn nhiều ghe bán cà ràng của những người Khmer, hiện người kinh doanh trên Chợ nổi Cái Răng chủ yếu là người Việt, cứ mùa nào thức ấy, hoa củ quả trên chợ nổi có đủ quanh năm, người bán chuyên chở đầy ghe thuyền, cắm cây sào thật cao, treo đầy củ quả đang bán để khách hàng nhìn thấy, bán hết hàng thì rời bến để tiếp tục đi lấy hàng từ các tỉnh.

Sung túc phong phú nhưng không bán cả ngày, chợ họp từ mờ sáng và nhộn nhịp nhất tầm 7h sáng, đến khoảng 9h thì tan. Khách vì thế nếu muốn tham quan phải dậy từ sớm. Chỉ cần đến bến sẽ có thuyền dịch vụ chở đi tham quan mà không cần phải ăn sáng trên bờ bởi không chỉ mua bán hoa củ quả, ghe thuyền trên sông còn phục vụ ăn uống với các món phở, hủ tiếu, cà phê.

Tạo sự hấp dẫn bởi mô hình giao thương trên sông nước, Chợ nổi Cái Răng trở thành điểm du lịch không thể thiếu của du khách khi đến thăm Cần Thơ. Chỉ trong 6 tháng đầu năm nay, chợ Nổi đã đón đến vài trăm nghìn lượt người đến tham quan.
(Theo NgoiSao)

Kỳ Co - hoang đảo đẹp ngỡ trời Tây

Nước biển ở Kỳ Co có hai màu rõ rệt, ở gần bờ là màu xanh ngọc, có thể nhìn xuống tận đáy, ra xa lại có màu xanh lam.
Xem thêm: Làng chài Bãi Xép vào top 'hòn ngọc bí ẩn' của châu Á

Đảo Kỳ Co có một mặt giáp biển, 3 mặt là đồi núi nên khi tới đây bạn có thể đi bằng thuyền ra đảo. Đây là địa điểm lý tưởng để tránh xa ồn ào phố thị.

Cách di chuyển khi đến đảo Kỳ Co

Đảo Kỳ Co cách thành phố Quy Nhơn 25 km, để đến đảo bạn sẽ phải di chuyển qua nhiều chặng. Tuy nhiên với mỗi cách đi bạn đều được khám phá thêm những nét độc đáo khác nhau. Hai sự lựa chọn sau:

Nếu đi theo nhóm hoặc cùng gia đình, từ thành phố Quy Nhơn bạn đến Eo Gió. Tới đây bạn có thể đi ghe hay thúng máy của các ngư dân hoặc thuê thuyền, canô ra đảo Kỳ Co với chi phí từ 300.000 đến 400.000 đồng một người, cả đi và về, bao gồm ăn trưa, thường là hải sản.

Khi tới đảo, thuyền sẽ đậu cách bãi biển khoảng 100 m, du khách sẽ phải lên thuyền thúng hoặc phà tự chế để ngư dân đưa ra thuyền và từ đó mới đi vào bờ.

Cách thứ 2 mạo hiểm hơn, bạn bắt đầu từ cầu Suối Cả, đi dọc sườn núi Phương Mai về hướng nam. Tuy nhiên, đây là đoạn đường đang hoàn thiện, chủ yếu là đường đất, một số đoạn dốc khá cao, chỉ thích hợp với người ưa mạo hiểm và có tay lái cứng.

Màu nước xanh trong nhìn thấy tận đáy.

Vui chơi ở Kỳ Co

Khi du lịch trên đảo, ngoài tắm biển và lặn ngắm san hô thì chinh phục những dãy núi hoặc tìm đến những con suối mát nước trong vắt chảy xuyên qua cánh rừng già sẽ rất thú vị. Nếu qua đêm trên đảo, bạn có thể mở tiệc BBQ hải sản nướng trên bờ biển.

Không chỉ thế, đảo Kỳ Co còn có bãi Sẹo, du khách có thể lặn ngắm san hô. Chỉ cần áo phao và một chiếc kính lặn, một ống thở là bạn đã sẵn sàng khám phá vẻ đẹp huyền bí của đại dương nơi đây.

Thủy triều ở đảo Kỳ Co khiến cho hang động bí ẩn lộ ra ngoài, du khách có thể khám phá, cạy hàu sữa trên vách đá, tìm bắt ốc, hải sâm, đang chen chúc nhau trong những vách đá. Chiều xuống, bạn có thể ngắm hoàng hôn buông xuống, phủ vàng cả hòn đảo, ngắm từng đàn chim bay về tổ rất yên bình.

Những mỏm đá nhô lên kỳ lạ ở ven biển Kỳ Co.

Lưu trú

Thông thường, khách du lịch chỉ đến đảo Kỳ Co trong ngày, sau đó quay về Quy Nhơn nghỉ ngơi, nơi có nhiều khách sạn, nhà nghỉ tùy theo yêu cầu của bạn.

Còn nếu qua đêm trên đảo, bạn nên chuẩn bị dụng cụ cần thiết như lều, bạt, nước, quần áo, bật lửa, dao… vì ở đây còn hoang sơ, không có điện và nước ngọt.
 
(Theo VnExpress)

Thứ Hai, 11 tháng 7, 2016

Đánh dấu 10 nơi phải đến ở Melaka - Malaysia

Melaka nằm trên tuyến đường biển giao thương giữa nhiều nước nên văn hóa và kiến trúc rất đa dạng, mang đến nhiều trải nghiệm lạ cho du khách.
Xem thêm: Những điểm đến không thể bỏ qua ở Malaysia

Nằm cách thủ đô Kuala Lumpur (Malaysia) khoảng 160 km về hướng Nam, Melaka (Malacca) là điểm du lịch nổi tiếng của Malaysia trong những năm gần dây. Là thuộc địa cũ của Bồ Đào Nha, Anh và Hà Lan nên Melaka sở hữu một nền kiến trúc và văn hóa đa dạng, mang lại những trải nghiệm ấn tượng về vùng đất này.

1. Pháo đài A Famosa

Pháo đài Bồ Đào Nha này là một trong những công trình kiến trúc châu Âu lâu đời nhất còn sót lại tại châu Á. A Famosa hay Porta de Santiago được xây dựng vào đầu những năm 1500 trên một đỉnh đồi ven biển nhằm mục đích bảo vệ Melaka sau khi bị vương quốc Hồi giáo hay có thể là từ một quốc gia châu Âu khác chinh phục.

Không lâu sau khi trở thành thuộc địa của Hà Lan, pháo đài đã được bàn giao cho người Anh để ngăn cho Melaka không rơi vào tay Napoleon. Sợ rằng Melaka sẽ bị chiếm đóng, người Anh đã phá hủy pháo đài. Nhờ vào sự thuyết phục của Sir Raffles - người sáng lập Singapore, một cổng của pháo đài đã được giữ lại cho tới ngày nay.

2. Nhà thờ Hồi giáo Masjid Selat


Masjid Selat được xây dựng vào đầu thế kỷ 20 với lối kiến trúc kết hợp giữa Trung Đông và Malaysia. Nằm trên một hòn đảo nhân tạo tại Malaka, nhà thờ được thiết kế có thể nổi khi mực nước dâng lên cao.

Phía bên ngoài nhà thờ được sơn trắng với điểm nhấn là nhiều đường viền màu sắc rực rỡ. Lớp kính của cổng tò vò có màu vàng và xanh là điểm đặc trưng của các nhà thờ Hồi giáo. Vào ban đêm, với một loạt các ánh đèn lung linh, Masjid Selat trở thành một trong những thắng cảnh đẹp nhất nơi đây.

3. Bảo tàng cung điện vương quốc Malaka


Là bản sao của cung điện dưới triều vua Mansur Shah (1456 - 1477), công trình này được xây dựng lại vào năm 1984 nhằm mục đích bảo tồn lịch sử của vùng. Cung điện có rất nhiều bức tranh mô tả cuộc sống thời bấy giờ như hình ảnh những quan lại, thương nhân… chờ bên ngoài sảnh chính để cống nạp và gửi tấu sớ tới nhà vua. Mặt trước của cung điện được xây dựng với hơn 1300 chi tiết là điểm nhấn của tòa kiến trúc này.

4. Tòa thị chính


Tòa thị chính cũng như hầu hết các kiến trúc cổ khác ở Melaka được sơn màu đỏ. Trước đây, tòa nhà này từng là văn phòng của Thống đốc và Phó thống đốc Hà Lan, sau đó được dùng làm trường học để dạy tiếng Anh miễn phí dưới thời đô hộ của Anh. Ngày nay, nơi đây là bảo tàng Lịch sử và Dân tộc học, nơi lưu giữ những trang phục truyền thống và đồ tạo tác qua nhiều thời kỳ lịch sử của Melaka.

5. Tháp xoay Taming Sari

Tháp xoay Taming Sari là một lựa chọn tuyệt vời để ngắm toàn cảnh Melaka. Mỗi lượt tham quan kéo dài bảy phút và tháp có thể phục vụ 80 người cùng một lúc. Ngoài ra, dưới chân tháp là một số các hoạt động khác mà du khách cũng có thể thử như cưỡi ngựa và thuê xe hơi điện để dạo quanh thành phố. Những tour trọn gói cũng bao gồm vé tham quan tháp kết hợp với một số địa điểm thú vị khác ở Melaka.

6. Đền Cheng Hoon Teng


Được xây dựng từ năm 1646, Cheng Hoon Teng là ngôi đền đa tôn giáo lâu đời nhất ở Malaysia với Đạo giáo, Khổng giáo và Phật giáo. Ngôi đền này nằm trên đường Harmony, là nơi tọa lạc của nhiều đền và nhà thờ Hồi giáo khác. Sảnh chính của đền thờ thần Kuan Yin, nữ thần của lòng nhân từ, sảnh phụ là nơi thờ các vị thần giàu có, sinh sôi và thịnh vượng.

7. Bảo tàng Baba và Nyonya


Bảo tàng được thành lập bởi ông Chan Kim Lay - triệu phú đời thứ tư của gia tộc từng sinh sống tại ngôi nhà này. Bảo tàng là nơi tái hiện văn hóa Trung Hoa và Malaysia, hay còn gọi là Baba Nyonya với một số lượng lớn các đồ thủ công được làm từ gỗ, gốm, sứ. Bảo tàng trưng bày nhiều tấm thảm lớn có khung trạm khắc cầu kỳ mô tả nền văn hóa Trung Hoa và Tây phương xen lẫn nền văn hóa bản địa.

8. Nhà thờ St. Paul


Nhà thờ St Paul được xây dựng trên đỉnh đồi cùng tên bởi một thuyền trưởng người Bồ Đào Nha vào năm 1521 nhằm tưởng nhớ St. Francis Xavier, nhà truyền giáo đầu tiên tại Malaysia. Trong chuyến đi năm 1552, ông mắc bệnh nặng và qua đời tại Trung Quốc. Thi hài của Xavier được an táng tạm thời tại nhà thờ này trước khi chuyển tới Goa. Du khách có thể tham quan ngôi mộ cũ của ông bên trong nhà thờ bên cạnh một bức tượng đá cẩm thạch mô tả cảnh St. Francis Xavier đang quan sát thành phố.

9. Phố Jonker


Jonker là khu phố tàu của Melaka. Lúc đầu, nơi này dành cho đầy tớ của các quý tộc người Hà Lan. Tuy nhiên, sau đó, nó trở thành nơi ở của chính các quý tộc. Khi người Trung Quốc chuyển đến đây, họ trang trí lại khu phố với những mái vòm đặc trưng. Vào mỗi tối thứ sáu, thứ bảy và chủ nhật khu phố này cấm xe cộ qua lại và do đó, nơi đây trở thành khu chợ đêm cho khách du lịch thỏa sức mua sắm.

10. Nhà thờ Christ


Nhà thờ Christ được xây dựng vào thế kỷ 18 sau khi Hà Lan chiếm Melaka từ người Bồ Đào Nha, là một trong những biểu tượng của thời kỳ này. Ban đầu, nhà thờ có màu trắng nhưng đến năm 1900, nó được sơn lại màu đỏ như hầu hết các công trình khác. Một số bia đá bên trong nhà thờ được khắc với nhiều thứ tiếng như tiếng Hà Lan, tiếng Anh, tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Ắc-mô-ni. Ngày nay, những bia đá này cung cấp một cái nhìn thú vị về thời kỳ thuộc địa trước đây.
 
(Theo NgoiSao)

Bài đăng phổ biến